Cơ sở lý luận và quan điểm về hỗ trợ người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay
Cơ sở lý luận và quan điểm về hỗ trợ người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay
Những phát hiện chính
- Trong một thời gian dài NKT mới chỉ được coi là đối tượng của tình thương; việc bảo vệ, hỗ trợ họ chủ yếu dựa trên cách tiếp cận của lòng nhân đạo. Việc dần thay đổi từ cách tiếp cận “phúc lợi xã hội” sang cách tiếp cận dựa vào “quyền con người” được thể hiện thông qua các hiến chương, công ước quốc tế và sáng kiến về quyền con người được phê chuẩn từ những năm 1980.
- Trong thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm triển khai thực hiện các chính sách trợ giúp NKT. Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, xã hội và gia đình đối với NKT; quyền và nghĩa vụ của NKT đã được quy định tương đối đầy đủ, tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động trợ giúp NKT, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của đa số NKT. Các bộ, ngành, địa phương đã tích cực triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ NKT trong các lĩnh vực: xóa đói, giảm nghèo, dạy nghề và tạo việc làm, khám, chữa bệnh, tạo điều kiện thuận lợi cho NKT tiếp cận các công trình công cộng v.v…
Sự khiếm khuyết ở một (hoặc vài chức năng) đã trở thành rào cản đối với việc hoà nhập của NKT bởi nhu cầu của họ chưa được xã hội tính đến. Các thiết kế công cộng thường chỉ dành cho những người có các chức năng được thực hiện bình thường, do vậy NKT khó tiếp cận các dịch vụ giao thông, công cộng, giáo dục, việc làm… và cuối cùng họ bị cô lập hoặc bị loại trừ khỏi những sinh hoạt cộng đồng. Cũng từ chỗ khó tiếp cận các dịch vụ công cộng, tiếp cận giáo dục… NKT bị đẩy vào tình trạng có trình độ học vấn thấp hơn và cơ hội việc làm cũng như thu nhập cũng thấp hơn. Vòng luẩn quẩn còn được tiếp tục khi những khó khăn về vật chất lại dẫn đến những thiệt thòi về tinh thần: NKT có thể bị coi là gánh nặng của gia đình, xã hội, bị coi thường, bị ngược đãi hoặc bỏ mặc… Như vậy, tình trạng khuyết tật làm tăng nguy cơ nghèo đói và sự nghèo đói lại làm tình trạng khuyết tật bị trầm trọng thêm.
Giải pháp khuyến nghị
- Tiếp tục thúc đẩy triển khai thực hiện Luật người khuyết tật; đẩy mạnh việc thực hiện đề án trợ giúp NKT giai đoạn 2011-2020.
- Thực hiện phân dạng, phân hạng khuyết tật theo mức độ suy giảm khả năng lao động và khả năng tự phục vụ làm cơ sở định hướng xây dựng các chương trình CSSK phù hợp; Nâng cao năng lực thực hiện các dịch vụ phát hiện sớm những khiếm khuyết ở trẻ trước khi sinh và trẻ sơ sinh, tạo điều kiện để trẻ từ sơ sinh đến 6 tuổi được tiếp cận và hưởng các dịch vụ can thiệp sớm, tăng cường các hoạt động tuyên truyền, tư vấn và dịch vụ về chăm sóc sức khỏe sinh sản; Triển khai thực hiện chương trình phát hiện sớm, can thiệp sớm, phẫu thuật chỉnh hình và cung cấp dụng cụ trợ giúp cho NKT, đặc biệt là tuyến y tế cơ sở về các kỹ năng phát hiện sớm và can thiệp sớm.
- Tăng cường truyền thông nâng cao nhận thức của NKT và gia đình có NKT về lợi ích của giáo dục đối với bản thân NKT, gia đình và lợi ích xã hội để khuyến khích trẻ em khuyết tật tham gia giáo dục. Xây dựng, ban hành chương trình, sách giáo khoa, tài liệu, thiết bị giáo dục NKT phù hợp với từng loại tật và mức độ khuyết tật, đặc biệt là với trẻ tự kỷ và khiếm thính. Đầu tư phát triển các trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hoà nhập. Nghiên cứu đề xuất thay đổi chính sách hỗ trợ giáo dục theo hướng tăng mức hỗ trợ và phát triển thêm các hình thức hỗ trợ, hướng tới thực hiện bảo trợ xã hội đối với học sinh khuyết tật.
- Nghiên cứu xây dựng chương trình dạy nghề riêng cho đối tượng là NKT. Có các biện pháp hỗ trợ NKT tiếp cận với các nguồn vốn tạo việc làm, đặc biệt là nguồn vốn vay ưu đãi từ ngân hàng chính sách xã hội.
- Nghiên cứu mở rộng diện NKT được BTXH và tăng mức TCXH cũng như mức trợ cấp đối với những nhóm đối tượng là NKT khác nhau. Nghiên cứu phát triển các dịch vụ xã hội và nghề công tác xã hội.
- Tiếp cận dịch vụ xã hội, tăng cường quản lý, thẩm định cấp phép các công trình xây dựng mới, cải tạo hoặc nâng cấp các công trình xây dựng phải đảm bảo các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật về tiếp cận của NKT.
- Tiếp tục hoàn thiện chính sách/tiêu chuẩn hỗ trợ NKT tiếp cận và sử dụng CNTT- truyền thông; Xây dựng cơ chế hỗ trợ cung cấp dịch vụ CNTT- truyền thông cho NKT. Thử nghiệm các mô hình đào tạo, việc làm về CNTT cho NKT.
- Thúc đẩy việc thành lập Câu lạc bộ thể dục thể thao, câu lạc bộ văn hoá nghệ thuật của người khuyết tật ở các địa phương; Cải tạo, nâng cấp hạ tầng cơ sở, xây dựng mới hạ tầng cơ sở thể dục thể thao đảm bảo phục vụ cho NKT đến tham gia tập luyện; Phát động các phong trào thể dục thể thao, văn hoá văn nghệ, hội thi văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao ở cấp địa phương.
Phát triển các tổ chức của/vì người khuyết tật, duy trì hoạt động thường xuyên của các tổ chức Hội, tổ chức tự lực của NKT; Phát triển hệ thống thông tin phản hồi của người khuyết tật.