Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã giành nhiều chính sách và nguồn lực ưu tiên phát triển toàn diện kinh tế – xã hội, cơ sở hạ tầng, giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực và và đảm bảo an sinh xã hội (ASXH) đối với đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS). Bên cạnh những thành tựu đạt được, chính sách ASXH đối với DTTS còn nhiều bất cập, tồn tại ảnh hưởng đến hiệu quả của các chính, giảm mức độ tiếp cận và thụ hưởng ASXH của DTTS.
Bảo đảm an sinh xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số là giải pháp cơ bản để giảm nghèo bền vững, nâng cao đời sống của nhân dân và góp phần ổn định chính trị xã hội. Nhà nước luôn quan tâm, đầu tư nhiều cho vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các huyện nghèo, xã thôn bản đặc biệt khó khăn, xã bãi ngang ven biển, hải đảo; thực hiện toàn diện các chính sách hỗ trợ, giúp đỡ đối với đồng bào các dân tộc thiểu số. Hệ thống chính sách an sinh xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số đã được ban hành khá đầy đủ và toàn diện, bao quát các lĩnh vực an sinh xã hội gồm hỗ trợ tạo việc làm, bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội và đảm bảo tiếp cận ở mức tối thiểu các dịch vụ xã hội (giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin) đã góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào các dân tộc.
Về cơ bản, hệ thống các chính sách ASXH đối với đồng bào DTTS khá toàn diện, bao quát các lĩnh vực. Chính phủ cũng triển khai hàng loạt các chương trình, dự án nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản, toàn diện vùng có đông đồng bào DTTS. Theo rà soát của Ủy ban dân tộc năm 2014, hiện có 130 văn bản quy phạm pháp luật đang thực hiện trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi. Trong lĩnh vực ASXH, có trên 70 chính sách đang được thực hiện nhằm cải thiện mọi mặt cuộc sống của hộ gia đình nghèo, từ việc tiếp cận dịch vụ (giáo dục, y tế), cơ sở hạ tầng, hỗ trợ sản xuất đến thúc đẩy sản xuất hàng hóa và liên kết thị trường, đào tạo nghề, tham gia thị trường lao động. Trong đó, giáo dục có khoảng 20 chính sách, y tế có 16 chính sách, nhà ở và điện có 8 chính sách, nước sạch và vệ sinh có 5 chính sách…
Chính sách ASXH đã từ tập trung hỗ trợ trực tiếp (như chính sách trợ cước, trợ giá và cấp không thu tiền một số mặt hàng thiết yếu cho người dân vùng dân tộc và miền núi) chuyển sang vừa đầu tư phát triển vừa hỗ trợ trực tiếp cho người dân (như hỗ trợ phát triển sản xuất, hỗ trợ đời sống văn hóa của người dân và đào tạo cán bộ cơ sở, giảm nghèo, y tế, giáo dục, đào tạo nghề…).
Nhóm các chính sách tạo việc làm, đảm bảo thu nhập tối thiểu và giảm nghèo đã hỗ trợ người dân nâng cao cơ hội tạo việc làm, tham gia thị trường lao động, chuyển đổi cơ cấu việc làm theo hướng đa dạng hóa sinh kế, giảm tỷ lệ thất nghiệp, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện cuộc sống, góp phần ổn định xã hội. Cụ thể: (1) Hệ thống tín dụng ưu đãi với mạng lưới dịch vụ bao phủ 100% xã, phường. Tỷ lệ đồng bào DTTS được vay vốn (27,5%) cao hơn so với các hộ dân tộc Kinh/Hoa (20,3%)[1]. Đến 28/2/2013 thông qua ngân hàng Chính sách xã hội, Nhà nước đã cho đồng bào DTTS vay số tiền là 23.425 tỷ đồng, góp phần phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện đời sống, giảm nghèo cho gần 1 triệu hộ[2]; (2) Chính sách đào tạo nghề đã góp phần nâng cao chất lượng lao động vùng DTTS: giai đoạn 2010-2012, đã có 848.574 lao động DTTS được đào tạo nghề, vùng Trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên có tỷ lệ người DTTS được hỗ trợ học nghề đạt cao nhất. Sau đào tạo nghề, nhiều người đã có việc làm mới hoặc tiếp tục làm nghề cũ có năng suất, thu nhập cao hơn[3]; (3) Chính sách đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng đã hỗ trợ cho 16.000 lao động DTTS, trong đó 7.132 lao động DTTS thuộc 62 huyện nghèo (giai đoạn 2010-2013). Đa số lao động DTTS đi xuất khẩu lao động đều có việc làm, thu nhập ổn định gửi tiền về cho gia đình nhờ đó nhiều hộ đã thoát nghèo, đầu tư xây dựng nhà, mua sắm tài sản, đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh hiệu quả[4]; (4) Chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất đã giúp cho đồng bào DTTS từng bước bỏ tập quán sản xuất nương rẫy, phụ thuộc vào tự nhiên chuyển sang tích cực áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao thu nhập, giảm nghèo bền vững; đồng thời nâng cao năng lực làm chủ đầu tư cho các xã, trình độ và kiến thức về xây dựng và quản lý dự án cho cán bộ cơ sở nhất là cán bộ xã; (5) Đầu tư vào cơ sở hạ tầng như các công trình đường giao thông đã tạo điều kiện cho người dân đi lại thuận lợi, thúc đẩy giao lưu kinh tế, văn hoá, xã hội; hệ thống thuỷ lợi được hoàn thiện đã nâng cao năng lực tưới tiêu, mở rộng diện tích đất sản xuất, giúp người dân ổn định lương thực; các công trình nước sinh hoạt, điện, trạm y tế xã, trường lớp học được đầu tư xây dựng kiên cố, đồng bộ ở các xã, thôn bản giúp cho người dân nông thôn vùng sâu, vùng xa cải thiện đời sống sinh hoạt hằng ngày; (6) Hỗ trợ đất ở, đất sản xuất đã giúp cho những hộ DTTS nghèo, đời sống khó khăn phát triển sản xuất, ổn định và cải thiện cuộc sống: Tính đến cuối năm 2012, các địa phương đã hỗ trợ đất ở cho 71.713 hộ ; hỗ trợ đất sản xuất cho 83.563 hộ[5]; (7) Công tác định canh định cư ở miền núi đã đem lại những thay đổi nhiều mặt trong đời sống nhiều cộng đồng dân cư. Từ năm 2007 đến 30/6/2012, đã hoàn thành định canh định cư cho 9.827 hộ với 46.187 nhân khẩu, thực hiện khai hoang thêm gần 9.000 ha đất ở và đất sản xuất, xây dựng mới hàng trăm công trình thủy lợi, điện sinh hoạt, nhà văn hóa, lớp học mẫu giáo, xây dựng trên 1.000 km đường giao thông nông thôn và 9.827 nhà ở cho các hộ định canh định cư, góp phần thiết thực trong việc ổn định đời sống và giảm nghèo đối với các hộ du canh du cư; (8) Chính sách khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư có tác động lớn đến cải thiện sinh kế cho đồng bào DTTS thông qua khuyến khích họ tự phát triển sản xuất để vươn lên thoát nghèo, tránh tư tưởng ỷ lại, góp phần thay đổi nhận thức, cách nghĩ cách làm, xóa bỏ tập quán canh tác lạc hậu qua đó góp phần nâng cao thu nhập.
Chính sách trợ giúp xã hội (TGXH) nhằm bảo đảm thu nhập và các điều kiện sinh sống ở mức tối thiểu (bằng các hình thức và biện pháp khác nhau) cho đồng bào DTTS gặp rủi ro, bất hạnh, nghèo đói, thiệt thòi trong cuộc sống không đủ khả năng tự lo được cuộc sống của bản thân và gia đình. Cụ thể: (1) Tỷ lệ các hộ nhận được TGXH thường xuyên của người DTTS đã tăng từ 19,4% (năm 2007) lên 38,8% (năm 2012)[6]. Ước tính đến cuối năm 2013 có khoảng 540 nghìn người DTTS đang hưởng chính sách TGXH thường xuyên. Tỷ lệ DTTS nhận được trợ cấp xã hội lớn hơn so với hộ Kinh do có nhiều người rơi vào hoàn ĐBKK và đã được hưởng đúng chính sách[7]; (2) Công tác cứu trợ đột xuất đối với đồng bào DTTS đã được triển khai tương đối kịp thời, góp phần tạm thời ổn định cuộc sống của đối tượng bị rủi ro. Giai đoạn 2006-2011, mỗi năm bình quân Nhà nước chi khoảng 1000 tỷ đồng và khoảng 50-60 nghìn tấn gạo để hỗ trợ các địa phương và người dân nói chung, DTTS nói riêng khắc phục thiên tai, ổn định cuộc sống[8].
Các chính sách hỗ trợ tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản: (i) Giáo dục ở vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa có tiến bộ rõ rệt. Mạng lưới giáo dục mầm non, tiểu học đã bao phủ đến tận các thôn bản vùng sâu, vùng xa. Hệ thống trường dân tộc nội trú và bán trú ngày càng củng cố. Tỷ lệ trẻ 5 tuổi người DTTS được đi học mầm non, tỷ lệ đi học tiểu học, trung học cơ sở đúng độ tuổi ngày càng tăng (ii) Thành công nhất trong chính sách đảm bảo y tế cho đồng bào DTTS là việc cung cấp rộng rãi bảo hiểm y tế cho người dân, gần như 100% người nghèo, người DTTS đã được cấp thẻ BHYT. Mạng lưới cơ sở y tế ngày càng phát triển, chất lượng khám chữa bệnh ngày càng tăng; (iii) Chính sách hỗ trợ nhà ở đã hỗ trợ 507.143 hộ trong giai đoạn 2009-2011, trong đó có 224.000 hộ là đồng bào DTTS. Hầu hết các căn nhà đều vượt diện tích và chất lượng quy định, với diện tích đa số từ 28-32 m2, nhiều căn nhà có diện tích 50-60 m2[9]; (iv) Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc, góp phần cải thiện điều kiện sống, nâng cao nhận thức của người dân nông thôn nói chung DTTS nói riêng, góp phần phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là đối với người nghèo, đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa; (v) Đồng bào DTTS được thông tin kịp thời về các chính sách của Đảng và Nhà nước; nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, rút ngắn khoảng cách về thông tin giữa các vùng, miền. Năm 2013, tỷ lệ xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo được phủ sóng phát thanh ước đạt 99,8%; tỷ lệ xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo được phủ sóng truyền hình đạt 99,8%; tỷ lệ xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo có đài truyền thanh xã đạt 87%[10].
Địa bàn và đối tượng chính sách cũng có thay đổi cơ bản, từ chỗ “dễ làm trước, khó làm sau” chuyển sang ưu tiên đầu tư và hỗ trợ cho những vùng khó khăn nhất.
Công tác tổ chức thực hiện chính sách ngày càng hoàn thiện và hiệu quả nâng lên. Việc tổ chức thực hiện chính sách được các Bộ, ngành và địa phương quan tâm triển khai, ban hành văn bản hướng dẫn theo lĩnh vực quản lý. Từng bước phân cấp mạnh hơn cho địa phương với nguyên tắc công khai, dân chủ, có sự tham gia tích cực của cộng đồng, doanh nghiệp và người dân.
Nguồn lực thực hiện chính sách được ưu tiên cho vùng DTTS và miền núi đặc biệt khó khăn, hỗ trợ DTTS nghèo, cộng đồng DTTS rất ít người. Theo báo cáo, giai đoạn 2006-2012 đã bố trí 150.000 tỷ đồng, chủ yếu là ngân sách Trung ương, ngoài ra là vốn ODA, ngân sách địa phương, cộng đồng và các doanh nghiệp. Giai đoạn 2006-2010, tổng các nguồn vốn hỗ trợ hằng năm cho khu vực DTTS và miền núi tăng bình quân trên 20%, cao hơn mức tăng bình quân cả nước, trong đó từ ngân sách nhà nước chiếm tỷ trọng khoảng 55-60%, tăng bình quân hằng năm khoảng 25-30%[11].
Chính sách quá nhiều, chồng chéo về nội dung và trùng lặp về địa bàn và đối tượng thụ hưởng dẫn đến cùng địa bàn và đối tượng thụ hưởng nhưng mức hỗ trợ một số chính sách khác nhau gây khó khăn trong thực hiện và đánh giá hiệu quả (như chính sách vay vốn phát triển sản xuất, hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ giáo dục…).
Các chính sách thường chỉ là hỗ trợ, giải quyết tình thế, chưa phải là đầu tư phát triển để khai thác các thế mạnh vùng DTTS, miền núi. Chưa có chính sách khuyến khích đồng bào DTTS vươn lên thoát nghèo bền vững, còn một số chính sách nặng về cho không. Các chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất cho đồng bào DTTS nghèo mới chỉ tính đến việc hỗ trợ ngắn hạn như: hỗ trợ cấp đất ở và đất sản xuất, hỗ trợ cấp kinh phí xây dựng và sửa chữa nhà cửa, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng… mà chưa tính đến những hỗ trợ lâu dài để người dân có thể ổn định đời sống như: khuyến nông, thông tin thị trường[12]. Chính sách hỗ trợ giao khoán chăm sóc, bảo vệ rừng và phát triển rừng sản xuất đã bước đầu tạo ra những chuyển biến nhất định về thu nhập và đời sống cho đồng bào nhưng chưa khai thác hết tài nguyên từ đất và rừng và hưởng lợi thích đáng từ sinh kế lâm nghiệp. Trong khi đó, hiệu quả sử dụng vốn vay của đồng bào DTTS chưa hiệu quả một phần do chưa có sự gắn kết, đẩy mạnh công tác phát triển nguồn nhân lực, nâng cao trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật, hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nông lâm ngư…
Các can thiệp hỗ trợ an sinh cho đồng bào DTTS chưa thể hiện sự khác biệt giữa các nhóm DTTS, nhiều chính sách chưa phù hợp với đặc điểm của DTTS. Chính sách về hỗ trợ đất sản xuất cho đồng bào DTTS không phát huy được hiệu quả do chưa xem xét đầy đủ trình độ phát triển, đặc điểm sinh kế, cư trú, quản lý đất đai giữa các nhóm dân tộc cũng như giữa các dân tộc sống ở các vùng miền khác nhau. Chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn còn một số quy định, định mức về hỗ trợ (tiền ăn, đi lại…) chưa phù hợp vớ vùng miền núi địa bàn rộng, xa xôi, đi lại khó khăn, nội dung, chương trình đào tạo nghề còn nặng về lý thuyết, chưa thực sự phù hợp với trình độ nhận thức của lao động DTTS; Chính sách hỗ trợ sản xuất từ khâu tập huấn, đến xây dựng mô hình, hỗ trợ giống, phân bón, thuốc trừ sâu nhưng đa số chưa phù hợp với trình độ dân trí và điều kiện tự nhiên vùng DTTS; Chính sách hỗ trợ người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng đối với đồng bào DTTS chưa được đồng bào hưởng ứng một phần do tâm lý sợ xa nhà, mặc cảm, tự ty vì trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật, tác phong công nghiệp kém nên nhiều lao động DTTS chưa đáp ứng được các thị trường lao động nước ngoài; Chính sách cấp không thu tiền ấn phẩm báo chí, tuyên truyền[13]: số lượng tin, bài tuyên truyền giữa các vùng miền, các dân tộc chưa hài hòa, có những dân tộc rất ít người chưa có bài giới thiệu trên mặt báo. Ngôn ngữ, hình ảnh đôi khi chưa phù hợp với trình độ, phong tục tập quán của nhân dân, nhất là chưa tạo được thông tin hai chiều để phản ánh tâm tư, nguyện vọng của đồng bào DTTS.
Một số chính sách thiết kế chưa phù hợp với thực tế nên không thể thực hiện được, không đạt mục tiêu đề ra như: Các chính sách hỗ trợ đất sản xuất đã không tính toán đầy đủ giữa nhu cầu cần hỗ trợ và quỹ đất có trong thực tế, dẫn đến không thể giải quyết được nhu cầu về đất sản xuất cho số hộ như mục tiêu của các chính sách đặt ra; Việc triển khai chính sách hỗ trợ phát triển chăn nuôi, nhất là chăn nuôi gia súc lớn chưa hiệu quả, quy mô hỗ trợ nhỏ lẻ (mỗi hộ được hỗ trợ 1 lần, 1 con), chất lượng con giống, phòng dịch chưa được quan tâm đúng mức, cách chăm sóc (dành một lao động chăm sóc, chăn thả), định mức hỗ trợ thấp về trồng cỏ, chuồng trại… cũng khiến cho chính sách không phát huy hiệu quả; Chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện được thiết kế chủ yếu dành cho lao động nông thôn, lao động phi chính thức nhưng thực tế rất ít người tham gia, nhất là người DTTS, nguyên nhân chủ yếu là do thiết kế chính sách chưa phù hợp với mức đóng còn cao so với thu nhập còn thấp của người DTTS, phần lớn không đủ khả năng tài chính để tham gia, trong khi hiện vẫn chưa có chính sách hỗ trợ người dân tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện; Chương trình nước sạch đối với đồng bào DTTS tại vùng núi chưa phát huy được hiệu quả do không đủ nước cung cấp theo thiết kế, chất lượng nước không bảo đảm, công tác quản lý, duy tu, bảo dưỡng và sửa chữa công trình chưa thường xuyên.
Chồng chéo trong quản lý, thiếu sự phối hợp trong thực hiện chính sách ASXH đối với đồng bào DTTS. Việc ban hành các văn bản hướng dẫn còn chậm nên công tác thực hiện chính sách còn gặp khó khăn, trong thực hiện thường phải bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với thực tế.
Việc thực hiện một số chính sách còn có sai phạm như thực thi chính sách không minh bạch, công tác điều tra, rà soát, tổng hợp đối tượng thụ hưởng chính sách còn thiếu chính xác. Công tác chi trả, hỗ trợ đôi lúc còn chưa kịp thời, chưa phù hợp.
Việc xây dựng các chính sách còn mang tính nhiệm kỳ, ngắn hạn, đề ra mục tiêu lớn nhưng thời gian và nguồn lực thực hiện không tương xứng, bố trí dàn trải, chưa được chủ động, chưa đảm bảo cho các mục tiêu và kế hoạch đã được phê duyệt. Mức hỗ trợ của nhiều chính sách còn thấp nên hiệu quả, tác động của chính sách chưa cao. Vốn dành cho chính sách hỗ trợ đất sản xuất đạt 13% nhu cầu, chính sách ưu đãi tín dụng đạt 38,6% nhu cầu; nước sinh hoạt chỉ bố trí được 13% kế hoạch; chính sách hỗ trợ định canh định cư mới đạt 46%; chính sách hỗ trợ dạy nghề mới đáp ứng được 20 – 50% nhu cầu vốn. Kinh phí được cấp để thực hiện các chương trình chính sách do Ủy ban Dân tộc quản lý giai đoạn 2006-2010 là 22.393,91 tỷ đồng, đạt 67,45% nhu cầu vốn được duyệt; Giai đoạn 2011-2014 được cấp 12.885,54 tỷ đồng, đạt 40,7% kế hoạch vốn.
III. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Việc thể chế hóa quan điểm đường lối ưu tiên của Đảng và Nhà nước trong từng chính sách cụ thể chưa ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ.
Công tác kiểm tra, rà soát đánh giá chính sách chưa được thường xuyên liên tục. Việc khắc phục những bất cập, yếu kém, điều chỉnh sau rà soát đánh giá chưa được coi trọng nên còn có chính sách mang tính áp đặt, không phù hợp với thực tế, hiệu quả thấp.
Quy trình xây dựng chính sách còn phức tạp, phải thẩm định nhiều lần gây mất thời gian nên một số chính sách khi được phê duyệt nội dung không còn phù hợp với thực tế, thời gian thực hiện còn lại rất ngắn.
Sự phối hợp giữa Bộ, ngành và các địa phương đôi khi chưa được chặt chẽ trong tổ chức thực hiện một số chương trình, chính sách.
Chưa phát huy đúng mức vai trò của chính quyền địa phương, người dân thụ hưởng chính sách trong tham gia hoạch định, xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách.
Nguồn lực thực hiện các chính sách dân tộc hàng năm chưa được cụ thể hóa trong Luật Ngân sách nên các Bộ, ngành và địa phương bị động trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách. Việc chia sẻ thông tin về phân bổ, bố trí nguồn lực thực hiện chính sách dân tộc chưa được quan tâm đúng mức.
Nhận thức của người DTTS còn nhiều hạn chế, chưa nỗ lực vươn lên tự thoát nghèo, bất đồng về ngôn ngữ, văn hóa, còn tâm lý tự ti, mặc cảm. Do quá nhiều chính sách hỗ trợ dẫn đến một số gia đình DTTS còn ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Trình độ chuyên môn, kỹ năng lao động DTTS còn nhiều hạn chế. Còn một số phong tục tập quán lạc hậu ở một số dân tộc như tảo hôn, kết hôn cận huyết thống, sinh nhiều con, cúng bái…
Vùng DTTS và miền núi còn nhiều khó khăn về cơ sở hạ tầng, dân trí thấp, kinh tế chậm phát triển, xa các trung tâm phát triển nên khó thu hút đầu tư, định mức đầu tư cao… Ở nhiều địa phương còn gặp nhiều khó khăn trong chế biến, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm…
Trình độ cán bộ thực hiện chính sách cấp cơ sở vùng DTTS và miền núi còn nhiều yếu kém.
Để thực hiện thắng lợi, đảm bảo thực hiện mục tiêu phát triển DTTS trong Nghị quyết và Chiến lược cũng như Kế hoạch phát triển KTXH 2016-2020, với phương châm “Đầu tư cho ASXH là đầu tư cho phát triển”; “Công bằng trong tiếp cận ASXH là quyền của con người và phải được ưu tiên”, bài viết này đề xuất một số khuyến nghị sau:
Một là, xây dựng các đề án, chính sách theo hướng đa mục tiêu, dài hạn, đa ngành, đa lĩnh vực và giảm đầu mối quản lý; chú trọng hơn vào các chính sách đầu tư phát triển nguồn nhân lực, phát triển sinh kế bền vững, ứng dụng khoa học-công nghệ vào sản xuất…; đối với những vùng khó khăn cần có các dự án trọng điểm để đảm bảo tập trung nguồn lực thực hiện chính sách; xây dựng và ban hành quy chuẩn cụ thể về ưu tiên và tính đặc thù trong từng chính sách đối với vùng dân tộc và miền núi.
Hai là, xác định việc xây dựng chính sách ASXH đối với DTTS giai đoạn 2016-2020 cần được gắn kêt trong các nhóm chính sách:
Ba là, duy trì các chính sách còn hiệu lực, có hiệu quả và rà soát, sửa đổi, bổ sung các chính sách còn bất cập theo lĩnh vực do các Bộ, ngành quản lý, trong đó cần ưu tiên theo các lĩnh vực: đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm, sử dụng cán bộ người DTTS và giảm nghèo bền vững.
Bốn là, đảm bảo nguồn kinh phí trung hạn và dài hạn để chủ động trong xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách ASXH đối với DTTS. Vốn cấp thực hiện các chính sách (vốn đầu tư, vốn sự nghiệp, vốn vay) nên cấp đồng bộ để thực hiện có hiệu quả. Ưu tiên phân bổ vốn ODA cho việc thực hiện chính sách ASXH.
Năm là, phân cấp mạnh cho các địa phương và đề cao trách nhiệm của địa phương trong việc quản lý, sử dụng, lồng ghép các nguồn lực để thực hiện; tăng cường phân cấp cho xã làm chủ đầu tư, đẩy mạnh phân quyền cho cộng đồng nhằm nâng cao vai trò giám sát của cộng đồng;
Sáu là, tăng cường xã hội hóa và sự đóng góp nguồn lực của các tổ chức, doanh nghiệp cho vùng đồng bào DTTS để tận dụng tối đa tất cả các nguồn lực;
Bảy là, xây dựng hệ thống chỉ tiêu theo dõi, đánh giá, giám sát việc thực hiện các chính sách giảm nghèo, ASXH đối với DTTS và hệ thống cơ sở dữ liệu về DTTS.
Tám là, tăng cường năng lực và nâng cao vị thế của người DTTS để họ có thể đón nhận các cơ hội tiếp cận hệ thống ASXH ở mức tối đa. Sự tham gia rộng rãi hơn của người dân vào lập kế hoạch, ý kiến đóng góp cải thiện chất lượng dịch vụ và giám sát việc thực hiện các chính sách ASXH đóng vai trò quan trọng trong nâng cao cơ hội tiếp cận và chất lượng cung cấp dịch vụ ASXH cho người DTTS.
Chín là, định kỳ thực hiện các phân tích, đánh giá về: (1) chiến lược sinh kế của DTTS; (2) quản lý rủi ro của đồng bào DTTS; và (2) hiệu quả của các chính sách ASXH hiện hành trong việc hỗ trợ người dân phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro, cải thiện sinh kế, để kịp thời xác định: (1) các nhóm đối tượng bị tổn thương; (2) mức độ rủi ro họ gánh chịu; và (3) chiến lược sinh kế của họ; và (4) các chính sách ASXH hiện hành cần bổ sung, sửa đổi và xây dựng chính sách mới, nhằm đảm bảo hỗ trợ người DTTS kịp thời, hiệu quả và bền vững./.
ThS. Nguyễn Bích Ngọc, ThS. Đặng Đỗ Quyên
Tài liệu tham khảo
[1] UNDP, Tác động của chương trình 135, qua lăng kinh hai cuộc điều tra đầu kỳ và cuối kỳ, 2012
[2] Hồ Lan Phương, Chính sách hỗ trợ vay vốn giảm nghèo, phát triển sản xuất kinh doanh cho đồng bào DTTS, Tài liệu hội thảo Ngân sách nhà nước bảo đảm ASXH cho đồng bào DTTS- Thực trang và những vấn đề đặt ra, 2013
[3] Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, Kết quả thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn vùng dân tộc thiểu số từ năm 2010 đến 2013, http://noichinh.vn/, 07/12/2013
[4] Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, Kết quả thực hiện chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn vùng dân tộc thiểu số từ năm 2010 đến 2013, http://noichinh.vn/, 07/12/2013
[5] Nguồn: BLĐTBXH: Báo cáo tóm tắt kết quả thực hiện các chính sách, chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững 2 năm (2011-2012); phương hướng nhiệm vụ giảm nghèo năm 2013 và định hướng đến năm 2015, ngày 22/4/2013
[6] Tác động của chương trình 135 giai đoạn II qua lăng kính hai cuộc điều tra đầu kỳ và cuối kỳ.
[7] Ước tính của tác giả theo số liệu của Cục Bảo trợ xã hội, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội
[8] Bộ Lao đông-Thương binh và xã hội, Cục Bảo trợ xã hội, Báo cáo tổng kết tình hình bảo trợ xã hội năm 2011, 02012, 2013, 2014
[9] Bộ Xây dựng, Báo cáo tình hình thực hiện nghị quyết 70/NQ-CP năm 2014
[10] Báo cáo Kết quả thực hiện Nghị quyết số 70/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 15/NQ-TW ngày 01 tháng 6 năm 2012 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020
[11] Vụ Kinh tế Địa phương và Lãnh thổ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, bài tham luận Cơ chế quản lý, chỉ đạo, điều hành chính sách an sinh xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số -giải pháp hoàn thiện cho giai đoạn tiếp theo, Tài liệu Hội thảo Ngân sách nhà nước bảo đảm ASXH cho DTTS- Thực trạng và giải pháp, 2013
[12] Viện Chính sách, Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn và Viện Dân tộc, Nghiên cứu thực trạng và đề xuất chính sách quản lý va sử dụng đất vùng DTTS và miền núi, 2012
[13] Thực hiện theo Quyết định 2472/QĐ-TTg và Quyết định 1977/QĐ-TTg
Tổng số lượng truy cập: | 2.912.289 |
Số lượng truy cập hôm nay: | 2.475 |